Lịch sử đồng hồ Junghan – thương hiệu đồng hồ của Đức
Thói quen sử dụng đồng hồ cơ (treo tường, để bàn, tủ) du nhập vào Việt Nam từ bao giờ?
Theo phỏng đoán và nghiên cứu các tài liệu để lại, người chơi đồng hồ đều công nhận rằng: do ảnh hưởng của lịch sử, đồng hồ được du nhập đầu tiên vào Việt Nam từ rất sớm, do những nhà truyền giáo đạo Thiên chúa mang theo từ Tây phương. Ở thời đó, chỉ có nhà của cha xứ hay quý tộc mới có thể sở hữu đồng hồ.
Theo tham khảo từ cuốn “Catholic Vietnam: A Church from Empire to Nation” của nhà xuất bản California được viết bởi tác giả Keith Charles:
Trong số những nhà truyền giáo buổi đầu ở Việt Nam, không ít người, nhất là các tu sĩ Dòng Tên – một dòng tu nổi bật về nghiên cứu khoa học, được đào tạo bài bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những nhà khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Họ đã góp công đưa nền khoa học phương Tây tiếp cận đến Việt Nam. Năm 1626, giáo sĩ Giuliano Baldinotti người Ý được vời về phủ chúa ở Thăng Long để giảng về thiên văn học, địa lý và toán học. Alexandre de Rhodes năm 1627 đã mang biếu chúa Trịnh Tráng chiếc đồng hồ chạy bằng bánh xe và cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà toán học Euclide. Các giáo sĩ khác như Da Coxta, Langerloi đã mang vào Đàng Trong phương pháp chữa bệnh theo lối Tây y nên được chúa cho mở nhà thương (bệnh viện). Tại Thăng Long – Kẻ Chợ, khi giáo sĩ Đắc Lộ truyền giáo đến đây cũng đã thiết lập một nhà thương chữa bệnh cho người nghèo ở Cầu Dền. Đây là những cơ sở từ thiện và chữa bệnh theo lối Tây y sớm nhất ở Việt Nam. Một số giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ rộng bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại Dòng Mến Thánh Giá Di Loan (Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày tại Hội chợ Triển lãm Paris năm 1867. Người ta cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang để nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây phi lao về trồng ở xứ Hà Úc (Huế).
Ghi chú: Trong tài liệu phía trên, từ chúa được NhàKho dùng để chỉ Chúa Trịnh (chữ Hán: 鄭王 / Trịnh vương, chữ Nôm 主鄭) là một vọng tộc phong kiến có chức năng như nhà vua, kiểm soát quyền lực Đàng ngoài giai đoạn 1545-1787
Như vậy, theo nguồn tài liệu chính thống có ghi chép lại thì năm 1627 chiếc đồng hồ phương Tây đã có mặt ở Việt Nam và được sử dụng bởi người Việt. (Có thể còn sớm hơn nữa nhưng chưa được ghi chép).
Tiếc rằng do ảnh hưởng của lịch sử, của Cách mạng văn hoá thời kỳ sau này mà hầu hết những gì do thời kỳ dòng dõi Phong kiến hay tầng lớp Vương giả cũ (trong đó có đồ vật, di sản, nhà cửa, sách vở, công trình kiến trúc, trang phục …. thậm chí cả con người) đều bị phá huỷ. Người chơi ngày nay chỉ còn biết đó là chiếc đồng hồ bánh xe của Tây phương. Chứ chẳng mường tượng nổi chiếc đồng hồ thế kỷ 17 được dùng tại Việt Nam mặt ngang mũi dọc ra sao.
Thời Pháp thuộc, ngoài những mặt tiêu cực do chiến tranh mang lại, người Pháp cũng mang đến rất nhiều công trình và văn hóa tốt cho chúng ta như Nhà hát lớn Hà Nội, Cầu Long Biên hay rất nhiều các nhà thờ lớn khác v.v.
Sự thuận lợi về giao thương và phát triển khoa học kỹ thuật ở những năm 1930 khiến những chiếc đồng hồ phương Tây không còn khan hiếm, xa lạ. Nhu cầu sở hữu một chiếc đồng hồ không chỉ là nhu cầu của đồng bào theo đạo mà thành một nét đẹp văn hoá trong lối chơi đồ của người xưa trong một giai đoạn dài của lịch sử.
Những chiếc đồng hồ Tây kết hợp hài hoà với đồ gỗ mĩ nghệ xứ Việt đã thành câu cửa miệng : “Đồng hồ côn, sập gụ, tủ chè”. Thậm chí đồng hồ côn đã đi vào các tác phẩm văn học như một ngầm hiểu của lối sống tiếp cận với ánh sáng văn minh: “Đồng hồ của Tây làm ra có bao giờ sai” (tác phẩm Tắt đèn – Ngô Tất Tố).
Đồng hồ Pháp và văn hoá Pháp theo thời gian đã gắn bó với những thăng trầm lịch sử văn hoá dân tộc. Đây cũng là lý do vì sao tất cả người chơi từ già đến trẻ đều biết đến “oDo” và muốn sở hữu cho mình những chiếc oDo, như kiểu xe máy thì phải Honda, ô tô thì phải Toyota vậy.
Tiếp theo bài lịch sử đồng hồ oDo của Pháp Nhàkho đã đăng trước đây. Hôm nay, Nhàkho sẽ giới thiệu với người đọc một thương hiệu đồng hồ hàng đầu nước Đức và nổi tiếng khắp châu Âu giai đoạn những thập niên đầu của thế kỷ trước.
Đây cũng là thương hiệu được người chơi Việt Nam từ xưa đến nay đánh giá cao ở chất âm nhẹ nhàng, ngân sâu. Đặc biệt dòng Junghans hoa thị và Junghans đồng bạch cho dải âm đều, trong trẻo nhẹ nhàng đến mê mẩn.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, Nhà kho xin phép tổng hợp những mốc lịch sử đáng ghi nhận của thương hiệu này:
Thương hiệu Junghan
– Năm 1861, thành công ngay từ những bước đi đầu
Công ty Junghans ra đời vào năm 1861. Doanh nhân Erhard Junghans thành lập công ty ở Schramberg, một thị trấn nhỏ trong Rừng Đen, cùng với anh rể của ông Jakob-Zeller Tobler. Lúc đầu, họ chỉ chuyên sản xuất gia công máy đồng hồ và chi tiết máy. Độ chính xác của Junghans khi hoàn thành các chi tiết và chất lượng sản phẩm vượt trội đã làm công việc của họ ngày càng thuận lợi hơn. Đây cũng là sự khởi đầu cho một doanh nghiệp sản xuất ra những chiếc đồng hồ hoàn chỉnh và bền bỉ. Chiếc đồng hồ đầu tiên mang thương hiệu Junghans được thiết kế và xây dựng theo phong cách riêng của công ty ra đời trong năm 1866.
– Năm 1875, Arthur Junghans
Arthur Junghans đã tiếp quản lý công ty trong năm 1875, sau cái chết sớm của cha mình. Arthur là một thợ đồng hồ được đào tạo bài bản và đã từng đi du lịch sang Mỹ, nơi ông nghiên cứu các công nghệ mới nhất có khả năng ứng dụng sản xuất hợp lý. Arthur Junghans đã giới thiệu nhiều kỹ thuật sản xuất mới tại các nhà máy của công ty, cung cấp những ý tưởng như nhà thiết kế và có vai trò của nhà lãnh đạo kỹ thuật. Ngay cả trước khi chuyển giao thế kỷ, nhiều máy móc và quy trình đã được phát triển cho Junghans để khẳng định ưu điểm vượt trội về chất lượng và quy trình sản xuất. Arthur Junghans tập trung chủ yếu vào các sáng kiến trong sản xuất đồng hồ, và không ít hơn 300 phát minh được cấp bằng sáng chế thuộc quyền quản lý của chính ông.
– Năm 1890, ngôi sao trên Junghans
Ngôi sao 8 cánh vẫn là nhận diện thương hiệu Junghans ngày nay đã được đăng ký đầu tiên vào năm 1890. Junghans đồng hồ đã được biết đến như giá cả phải chăng, sản phẩm chất lượng cao từ Đức và cũng được bán trên toàn thế giới. Trong năm 1903, tầm nhìn Arthur Junghans ‘trở thành hiện thực – Junghans là nhà máy sản xuất đồng hồ lớn nhất thế giới. Mỗi năm có hơn 3.000 nhân viên sản xuất hơn 3 triệu đồng hồ. Các cơ sở sản xuất đã sớm được mở rộng. Và do đó tòa nhà trụ sở của Junghan ra đời như một biểu tượng và hội tụ tinh hoa ánh sáng của đồng hồ. Tòa nhà được hiện được bảo vệ như một di tích lịch sử.
– Năm 1946, Một di sản quý giá trong thời điểm khó khăn!
Sau khi Arthur Junghans chết, con trai Erwin và Oscar đã tiếp quản công ty trong năm 1920. Tiếp tục kế thừa các giá trị truyền thống và duy trì tiêu chuẩn cao của công ty là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng anh em nhà Junghan đã thành công. Vào đầu những năm 1930, đồng hồ đeo tay đầu tiên đã được sản xuất và đã nhanh chóng thay thế đồng hồ bỏ túi như phong cách phổ biến nhất của đồng hồ trên thị trường. Ngay cả sau khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đức quốc xã đã tháo dỡ các nhà máy đồng hồ để lấy đồng làm súng đạn, tinh thần sáng tạo của các chủ đồng hồ Junghans ‘vẫn không hề nản chí. Junghans phát triển phong trào đầu tiên đồng hồ đeo tay chronograph, huyền thoại J88, sớm nhất là năm 1946. Junghans cũng đã có thể khẳng định mình như một công ty với một truyền thống lâu dài trong môi trường thị trường mới tái thiết sau chiến tranh.
– Năm 1970 ,Thời gian của thạch anh
Sau khi hợp nhất công ty thành công năm 1945, Junghans bắt đầu tập trung vào nghiên cứu những phương pháp mới, chính xác hơn để đo thời gian. Kết quả đầu tiên của những nỗ lực này là tìm hiểu về giao động điện. Tuy rằng công nghệ thạch anh vừa được phát minh, nhưng Junghans thực sự đã áp dụng và tiếp tục phát triển. Đồng hồ thạch anh của Đức đầu tiên được chế tạo vào cuối những năm 1960 và đồng hồ đeo tay thạch anh đầu tiên của Đức được chế tạo vào năm 1970 đều do Junghan sản suất. Như một người tiên phong trong phát triển chronographic, Junghans đã làm nên lịch sử một lần nữa với trở thành đồng hồ bấm giờ chính thức của Olympic mùa Hè 1972.
– Năm 1985, Junghans và chiếc đồng hồ điều khiển vô tuyến
Junghans nào được tạo một cuộc cách mạng trên thị trường đồng hồ và đồng hồ khi họ đã phát triển bảng đồng hồ điều khiển vô tuyến đầu tiên. Đồng hồ đeo tay điều khiển vô tuyến đầu tiên trên thế giới, Mega 1, tiếp theo đồng hồ năng lượng mặt trời điều khiển vô tuyến đầu tiên vào năm 1990. Để kỷ niệm sinh nhật 15 năm Mega 1 năm 2005 và để vinh danh các cổ điển, Junghans ra mắt Mega 1000, một giải thích mới của đồng hồ đeo tay điều khiển vô tuyến đầu tiên trên thế giới kết hợp giữa thiết kế hiện đại và công nghệ cực kỳ hiện đại.
Sau khi đọc xong và so sánh, có lẽ anh em đã cảm thấy rằng lịch sử của thương hiệu đồng hồ cơ khí Junghan của Đức có khi còn nổi tiếng hơn cả oDo, và thật sự sẽ là thiếu sót khi chơi đồng hồ mà không có một chiếc J mũi tên.
(nguồn tài liệu: Sưu tầm & Biên dịch từ tiếng nước ngoài)